Chiến tranh Thế giới thứ hai Courageous (lớp tàu sân bay)

Courageous

Courageous đang bị chìm

Trong những ngày đầu tiên của cuộc xung đột, các đội đặc nhiệm tìm và diệt được hình thành chung quanh các tàu sân bay hạm đội để phát hiện và tiêu diệt tàu ngầm U-boat. Vào ngày 17 tháng 9 năm 1939, hai quả ngư lôi phóng từ tàu ngầm Đức U-29 đã lật ngược thế cờ, và Courageous trở thành tàu chiến Anh đầu tiên bị đánh đắm trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Do chiếc tàu sân bay Ark Royal cũng bất ngờ suýt bị ngư lôi từ tàu ngầm bắn trúng bảy ngày trước đó, các tàu sân bay hạm đội được cho rút khỏi vai trò này.[45]

Glorious

Lực lượng J, bao gồm Glorious, được tổ chức để săn tìm thiết giáp hạm bỏ túi Đức Admiral Graf Spee tại Ấn Độ Dương. Việc này đã không thành công, và Glorious tiếp tục ở lại Ấn Độ Dương cho đến tháng 12 năm 1939 khi nó được chuyển sang Địa Trung Hải. Glorious được gọi quay trở về Hạm đội Nhà vào tháng 4 năm 1940 để hỗ trợ trên không cho lực lượng Anh đổ bộ lên Na Uy.[46] Những chiếc Gloster Gladiators thuộc Liên đội Không quân Hoàng gia 263 được nhận lên tàu để được chuyển đến các căn cứ ở Na Uy. Glorious và Ark Royal có mặt ngoài khơi miền Trung Na Uy vào ngày 24 tháng 4, nơi Liên đội 263 được chuyển lên bờ còn những máy bay được phối thuộc của chiếc tàu sân bay tấn công các mục tiêu tại khu vực Trondheim. Glorious phải quay trở về Scapa Flow vào ngày 27 tháng 4 để tiếp nhiên liệu và nhận máy bay mới. Nó quay trở lại vào ngày 1 tháng 5 nhưng không thể chất dỡ số máy bay mới do thời tiết xấu. Lực lượng đặc nhiệm bị Không quân Đức không kích nặng nề suốt ngày và phải rút lui vào chiều tối hôm đó.[47]

Glorious quay trở lại vào ngày 18 tháng 5 với sáu thủy phi cơ Supermarine Walrus thuộc Liên đội Không lực Hải quân 701 và 18 máy bay tiêm kích Hawker Hurricane của Liên đội Không quân Hoàng gia 46 trên tàu. Những chiếc Walrus nhanh chóng cất cánh để bay đến Harstad, nhưng sân bay tại Skånland dành cho những chiếc Hurricane vẫn chưa sẵn sàng, nên chúng vẫn còn trên tàu khi Glorious quay trở về Scapa Flow vào ngày 21 tháng 5. Chiếc tàu sân bay quay lại khu vực Narvik vào ngày 26 tháng 5 và những chiếc Hurricane nhanh chóng cất cánh.[48]

Thành công nhỏ nhoi này không thể cứu vãn tình thế chung, và lực lượng Anh buộc phải rút lui vài này sau đó. Chiến dịch Alphabet nhằm triệt thoái bắt đầu ở phía Bắc trong đêm 3-4 tháng 6, và Glorious đi đến ngoài khơi vào ngày 2 tháng 6 để hỗ trợ. Nó chỉ mang theo chín chiếc Sea Gladiator thuộc Liên đội Không lực Hải quân 802 cùng sáu chiếc máy bay ném bom-ngư lôi Fairey Swordfish thuộc Liên đội 832 để tự vệ, vì hy vọng sẽ triệt thoái được những máy bay tiêm kích Không quân Hoàng gia nếu hoàn cảnh cho phép. Mười chiếc Gladiator thuộc Liên đội 263 đã hạ cánh vào xế trưa ngày 7 tháng 6, rồi đến lượt những chiếc Hurricane thuộc Liên đội Không quân Hoàng gia 46 cũng hạ cánh thành công mà không gặp vấn đề gì đáng kể vào đầu hôm, cho dù chúng có tốc độ hạ cánh nhanh hơn những chiếc máy bay cánh kép.[49] Đây là lần đầu tiên kiểu máy bay chiến đấu cánh đơn tính năng cao không có móc hãm hạ cánh trên một tàu sân bay.[50]

Đại tá hạm trưởng Guy D'Oyly-Hughes đã yêu cầu và được phép di chuyển độc lập đến Scapa Flow vào những giờ đầu tiên của ngày 8 tháng 6. Trên đường quay về ngang qua Bắc Hải, Glorious cùng hai tàu khu trục hộ tống AcastaArdent bị hai thiết giáp hạm Đức ScharnhorstGneisenau phát hiện.[51] Không có chiếc máy bay tuần tra chiến đấu (CAP) nào hiện diện trên không, không một máy bay nào đậu trên sàn đáp sẵn sàng cất cánh cũng như không có quan sát viên nào trực chiến.[52] Các tàu chiến hạng nặng Đức đã đánh chìm cả ba con tàu Anh cùng hầu hết thủy thủ đoàn, cho dù Acasta đã xoay xở phóng ngư lôi nhắm vào Scharnhorst trước khi nó bị chìm. Chỉ có 43 người của Glorious còn sống sót.[53]

Furious

Cho đến ngày 2 tháng 10 năm 1939, Furious vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ huấn luyện kết hợp với tuần tra càn quét chống tàu ngầm ngoài khơi bờ biển phía Đông Scotland.[54] Sau đó nó được điều về Hạm đội Nhà thay thế cho chiếc Courageous bị đánh chìm, và được tung ra cùng với hạm đội vào ngày 8 tháng 10 để truy tìm Gneisenau cùng các tàu tháp tùng được trông thấy ngoài khơi phía Nam Na Uy. Furious rời khỏi nơi neo đậu tại Scapa Flow bên cạnh thiết giáp hạm Royal Oak để tiếp tục truy tìm vô vọng các tàu Đức vào ngày 13 tháng 10, chỉ một ngày trước khi Royal Oak bị tàu ngầm U-47 đánh chìm ngay tại Scapa Flow. Furious trở thành soái hạm của đoàn tàu vận tải đưa phần lớn Sư đoàn 1 Bộ binh Canada đến Anh Quốc vào giữa tháng 12 năm 1939.[55]

Furious gia nhập cùng Hạm đội Nhà ngoài khơi bờ biển Na Uy vào ngày 10 tháng 4 năm 1940 khi những chiếc Swordfish của nó thực hiện nhiều cuộc tấn công xuống tàu bè Đức tại Narvik những ngày tiếp theo. Nó được tiếp nhiên liệu tại Tromsø vào ngày 14 tháng 4 và đã ở lại phía sau trong khi phần lớn Hạm đội Nhà khởi hành vào ngày 15 tháng 4, máy bay của nó thực hiện những phi vụ trinh sát cho đến khi được lệnh quay trở về nhà vào ngày 25 tháng 4. Turbine phía trong bên mạn trái bị hư hại cho chấn động của một cú suýt trúng vào ngày 18 tháng 4 và hư hại nghiêm trọng hơn so với ước lượng ban đầu. Sau khi được sửa chữa nhanh, Furious quay trở lại vào ngày 18 tháng 5 mang theo những chiếc Gladiator thuộc Liên đội 263 được tái lập; chúng được tung ra vào ngày 21 tháng 5 sau khi căn cứ của chúng tại Bardufoss sẵn sàng. Chiếc tàu sân bay quay lại Scapa Flow sau khi những chiếc Gladiator cất cánh.[56]

Chỉ mang theo một nửa Liên đội Không lực Hải quân 816 để tự bảo vệ, Furious di chuyển mà không được hộ tống đến Halifax, Nova Scotia, chở theo số vàng trữ kim trị giá 18 triệu Bảng Anh. Đến ngày 1 tháng 7, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải chuyển quân Canada hướng đến Iceland từ Halifax và chở theo gần 50 máy bay, linh kiện và đạn dược. Theo sáng kiến riêng của cá nhân, Đại tá Hải quân hạm trưởng Thomas Hope Troubridge ra lệnh chất đầy đường vào mọi chỗ trống có được trên tàu để chở về Anh. Nó nhận lại liên đội không lực phối thuộc của mình sau khi quay về và thực hiện một số cuộc không kích xuống tàu bè tại vùng biển Na Uy và xuống căn cứ thủy phi cơ tại Tromsø trong suốt tháng 10 năm 1940.[57] Furious nhận lên tàu 55 máy bay tại Liverpool vào ngày 7 tháng 11 để lên đường đi Takoradi, Gold Coast vào ngày 15 tháng 11, nơi số máy bay này cất cánh vào ngày 27 tháng 11 tăng cường cho các đơn vị tiêm kích của Không lực Sa mạc đang bảo vệ Ai cập. Đến ngày 15 tháng 12, Furious quay trở về Liverpool nơi nó tiếp tục nhận 40 chiếc Hurricane để chuyển giao đến Takoradi. Nó khởi hành vào ngày 21 tháng 12, gia nhập Đoàn tàu vận tải WS5A và đụng độ với tàu tuần dương Đức Admiral Hipper vào ngày 25 tháng 12. Con tàu Đức bị đánh đuổi bởi lực lượng hộ tống, và Furious đi đến Takoradi vào ngày 10 tháng 1 năm 1941. Nó quay về đến Anh vào ngày 5 tháng 2, trải qua một đợt tái trang bị ngắn trước khi thực hiện một chuyến vận chuyển máy bay khác đến Takoradi từ ngày 4 đến ngày 22 tháng 3.[58]

Giờ đây với một điểm đến mới cho các chuyến vận chuyển, Furious chuyên chở hai tá máy bay Hurricane đến Gibralta vào ngày 25 tháng 4 nơi chúng được chuyển sang chiếc Ark Royal để được tiếp tục chuyển đến Malta đang bị phong tỏa. Nó quay trở lại với một lô Hurricane khác và đến Gibralta vào ngày 18 tháng 5; một số chiếc được chuyển sang Ark Royal qua những tấm ván nối liền hai sàn đáp khi hai chiếc tàu sân bay đậu quay đuôi lại với nhau. Lần này Furious tháp tùng theo Ark Royal, cả hai chiếc đã tung máy bay của chúng ra ở một địa điểm phía Nam Sardinia. Nó đã lặp lại nhiệm vụ vận chuyển này thêm ba lần từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1941.[59] Tuy nhiên, vào tháng 7tháng 8, Furious cùng với tàu sân bay Victorious đã tấn công các căn cứ Đức ở khu vực Bắc Cực của Na Uy và Phần Lan với thành công hạn chế và tổn thất nặng. Sau chuyến vận chuyển cuối cùng, nó được gửi đến Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ để tái trang bị.[60]

Furious quay trở lại Anh vào tháng 4 năm 1942 và trải qua ba tháng tiếp theo huấn luyện. Vào tháng 8 nó tham gia đoàn tàu vận tải hướng đến Malta trong khuôn khổ Chiến dịch Pedestal, nhưng chỉ tiến đến đủ gần cho 38 chiếc máy bay Supermarine Spitfire cất cánh bay đến được Malta. Tàu sân bay Eagle cùng tham gia đã bị trúng ngư lôi và chìm trong chiến dịch này, nhưng Furious đã quay mũi trở lại sau khi số máy bay cất cánh và quay về Gibralta an toàn. Nó nhận lên tàu một lô 32 chiếc Spitfire khác vào ngày 16 tháng 8 và chúng cất cánh vào ngày hôm sau ở vị trí phía Đông Nam quần đảo Baleares. Sau nhiệm vụ này, Furious được gửi trở về Hạm đội Nhà để huấn luyện; tuy nhiên một nhiệm vụ cần thiết khác để tăng cường phòng thủ Malta trước Chiến dịch Torch được đặt ra, và nó có mặt vào ngày 27 tháng 10. Nó nhận lên tàu 32 chiếc Spitfire và tung chúng ra vào ngày 29 tháng 10 trước khi quay trở lại Gibralta tham gia Chiến dịch Torch.[61]

Đảm nhận nhiệm vụ hỗ trợ cho lực lượng đặc nhiệm trung tâm, máy bay của Furious đã vô hiệu hóa các sân bay tại La SeniaTafraoui, cả hai đều gần Oran, Algeria. Nó tiếp tục ở lại cùng Lực lượng H cho đến tháng 2 năm 1943 trước khi được chuyển sang Hạm đội Nhà, nơi nó phục vụ cho đến hết chiến tranh. Vào tháng 7, Hạm đội Nhà phô trương lực lượng ngoài khơi Na Uy trong một nỗ lực đánh lừa thu hút sự chú ý của đối phương khỏi hoạt động chính khi Đồng Minh đổ bộ lên Sicilia. Nhiệm vụ của Furious là nhữ cho một máy bay trinh sát Đức phát hiện các con tàu Anh và đánh điện báo cáo trước khi bắn hạ nó.[62] Furious được tái trang bị trong tháng 8 rồi trải qua hết thời gian còn lại của năm trong công việc huấn luyện.[63]

Vào ngày 3 tháng 4 năm 1944, máy bay Fairey Barracuda xuất phát từ Furious và Victorious đã tấn công thiết giáp hạm Đức Tirpitz tại Altafjord, Na Uy, như một phần của Chiến dịch Tungsten. Tirpitz bị đánh trúng 14 lần, và phải mất đến ba tháng để sửa chữa, cho dù bốn chiếc máy bay đã bị mất trong cuộc tấn công. Hạm đội Nhà cố thực hiện một cuộc tấn công khác vào cuối tháng, nhưng hoàn cảnh thời tiết xấu đã ngăn trở không thể thực hiện; thay vào đó các tàu sân bay đã tấn công các cơ sở tại Bodø, nhưng phát hiện một đoàn tàu vận tải Đức và đã đánh chìm ba chiếc. Ba chiến dịch khác được tiến hành trong tháng 5 nhắm vào các mục tiêu phía Bắc Na Uy, bao gồm hai lần nhắm vào Tirpitz, bị hủy bỏ hay chuyển sang mục tiêu khác, nhưng cũng đánh chìm được ba tàu Đức và hai chiếc khác bị bốc cháy. Furious và các tàu sân bay khác tiến hành một nỗ lực khác nhằm đánh chìm Tirpitz vào ngày 17 tháng 7 nhưng đã không thành công vì lực lượng phòng thủ Đức đã được báo động toàn diện. Thêm bốn cuộc tấn công tương tự nhắm vào Tirpitz được thực hiện trong tháng 8, nhưng chỉ có cuộc không kích vào ngày 24 tháng 8 thành công một phần với hai cú đánh trúng gây hư hại nhẹ.[64]

Khi chiến tranh tiếp diễn, sự cũ kỹ và những giới hạn của nó càng trở nên rõ ràng, và Furious được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 15 tháng 9 năm 1944. Nó bị loại bỏ vào tháng 4 năm 1945 rồi được sử dụng trong thử nghiệm đánh giá tác động các vụ nổ đối với cấu trúc con tàu. Furious bị bán để tháo dỡ vào năm 1948 và việc tháo dỡ hoàn tất vào năm 1954 tại Troon.[63]

Liên quan